Trang Chủ, Dấu Chân lãng tử,

Chủ Nhật, 10 tháng 6, 2012

GẶP GỠ BÀ HOÀNG THỊ NGỌC ANH, EM GÁI HOÀNG CÚC TẠI SÀI GÒN


GẶP GỠ BÀ HOÀNG THỊ NGỌC ANH,
EM GÁI HOÀNG CÚC TẠI SÀI GÒN


Từ chiều 9.6.2012 khi đến thăm nhà chị An (Nguyễn Thị Ngọc Quỳnh, Trưởng nữ của bà Hoàng Thị Ngọc Anh), tôi có nhờ chị hẹn trước, và Chủ nhật 11.6.2012 sẽ đến thăm Mẹ tại số 25 Nguyễn Văn Đừng, P. 6, Q. 5, Sài Gòn.

Đúng hẹn, tôi đến nhà thăm gia đình đình bà, rất may hôm nay bà khỏe, bà và người con trai cả Nguyễn Đức Thọ (tức Hội) tiếp tôi. Năm nay bà đã 96 tuổi, còn minh mẫn sáng suốt lắm, đó là phúc trời cho, chỉ tiếc là tai bị lãng nặng, muốn nói gì phải viết giấy, bà trả lời bằng giọng nói rõ ràng minh bạch.

Nghe tôi có ý định thu thập một số tài liệu liên quan tới Ba tôi và chị Hoàng Thị Kim Cúc, trong đó liên hệ tới đại gia đình họ Hoàng tại Vỹ Dạ, bà vui vẻ, nhiệt tình nhận lời và lục lọi một số tài liệu có liên hệ các mối liên hệ nêu trên.

Chúng tôi uống trà, trò chuyện và bắt đầu lật lại chuyện xưa cũ, Sau đó, bà đem ra một số album, tôi chụp sao lưu một số hình ảnh rất giá trị liên quan tới gia đình cụ Hoàng Phùng và chị Tâm Chánh Hoàng Thị Kim Cúc. Bà rất vui khi được làm công việc hữu ích này cho gia đình mình.

Tôi hẹn với bà sau khi viết xong tôi sẽ in tặng gia đình bà tập sách này.




 
ĐƯỜNG TRẦN HƯNG ĐẠO Q. 5, SÀI GÒN
VÀ NGÃ RẼ PHẢI LÀ NGUYỄN VĂN ĐỪNG


 
HTLT VÀ BÀ HOÀNG THỊ NGỌC ANH










Ảnh gia đình:  Cụ Hoàng Phùng, Bà Chánh thất Tôn Nữ Thị Khuê và Bà Thứ thất Hồ Thị Đông Mai

Từ trái sang, -  Hàng đầu: Hà Thúc Chỉ (con trai bà Tường Vy), Hà Thúc Quả (ở Kiến An, con trai bà Tường Vy), Hoàng Phước Quả (ở Mỹ, con trai ông Cả Toại), Bà Chánh thất Tôn Nữ Thị Khuê, Hoàng Thị Quỳnh Hoa (ở Mỹ, con gái ông Cả Toại), Hà Thị Tường Vân (ở Hà Nội, con gái bà Tường Vy), Bùi Thị Tú Trang (con gái bà Mỹ Hạnh), Cụ Hoàng Phùng, Hoàng Tương Cận (con trai Bà Đông Mai), Hoàng Thị Yến Chi (con gái ông Cả Toại).
Từ trái sang, -  Hàng sau: Bà Thứ thất Hồ Thị Đông Mai bế con gái Hoàng Thị Bạch Tuyết (ở Mỹ), Trưởng nữ Hoàng Thị Mỹ Hạnh (nguyên Giám thị trường Đồng Khánh, định cư ở Mỹ), Hoàng Thị Kim Cúc, Hoàng Thị Ngọc Anh (Ở Sài Gòn), Hoàng Thị Tường Vy bế bé Hà Thị Như Ý (ở Hà Nội), cô Bùi Xuân Dục tức Hoàng Thị Hành (vợ Ông Cả Toại, ở Mỹ), Hà Thúc Thảo (chồng cô Tường Vy), Cậu cả Hoàng Toại (ở Mỹ), Hoàng Do (ở Hà Nội sau về Huế), Hoàng Tế Ngộ (ở Huế), Hoàng Hoan Nghinh (ở Hà Nội, nguyên Đại Sứ Quán Philipin), cậu Quý tử (con trai út): Hoàng Tiêu Diêu (tức Hoàng Xuân Tùy, ở Hà Nội,  nguyên Thứ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp)

 








  Ảnh gia đình ông Hoàng Toại 
(ảnh chụp tại Mỹ ngày 19. 4 . 2001, nhân Sinh nhật lần thứ 95)

Từ trái sang, -  Hàng đầu:  Con trai trưởng Hoàng Phước Quả, ông Hoàng Toại, Nhung (vợ Quả), Phạm Tuân và vợ Hoàng Thị Hỷ Nguyên, Hà và chồng Hoàng Phước Thiện , Liễn và vợ Hoàng Thị Quỳnh Hoa,  vợ chồng Thân. 










PHỤ LỤC:


Những hồi ức đẹp của đ/c Hoàng Xuân Tùy

Ông Tùy, bà Ninh sau 1954.
Sau khi tốt nghiệp Trường Cán bộ VN (k7), 2 đ/c Hoàng Xuân Tùy và Nguyễn Văn Bồng được giữ lại làm cán bộ khung cho k1 Võ bị (tương đương k8). Tại đây, đ/c Hoàng Xuân Tùy được Phó giám đốc Trần Tử Bình giới thiệu kết nạp vào Đảng CS Đông Dương (khi đó Đảng ta đã tuyên bố "tự giải tán", rút vào bí mật). Đ/c Hoàng Xuân Tùy gắn bó với k1 Võ bị.
Sau này đ/c Tùy về công tác ở Báo QĐND rồi ra tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Hòa bình về xây dựng Đại học Bách khoa HN rồi làm thứ trưởng Bộ Đại học và THCN.
Hồi ức ngày ở Điện Biên của ông được ghi lại:

Đội ngũ phát hành báo cũng quang gánh ra chiến trường, mang theo nào giấy, nào đèn hộp tự chế. “Trên đường hành quân, khiêng vác cồng kềnh, ai cũng tưởng chúng tôi là bộ đội pháo binh”. Ngày 13-3, trong lúc tất cả bộ đội đang sẵn sàng đợi lệnh chiến đấu, đội quân phát hành gánh tờ Quân Đội Nhân Dân mới nhất trên vai chạy dọc chiến hào tỏa xuống các đơn vị.
Trước giờ nổ súng, tất cả bộ đội đều đã được chính trị viên cầm báo đọc cho nghe thư của Bác Hồ: “Các chú sắp ra trận, nhiệm vụ các chú lúc này rất to lớn, vinh quang... Bác chờ các chú báo cáo thành tích để thưởng cho các đơn vị và cá nhân xuất sắc nhất. Chúc các chú thắng to...”.
Những món ăn vô hình ấy đã góp phần cổ vũ tinh thần chiến sĩ khó có gì so sánh được. Những tấm gương anh hùng như Tô Vĩnh Diện, Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót cũng lần đầu tiên được tôn vinh trên những tờ báo nóng bỏng khói súng này.
Nhưng vẫn có những điều làm những người làm báo phải tiếc hùi hụi. Đó là khi vì bí mật quân sự mà những câu chuyện đẹp như những thiên anh hùng ca đành phải xếp hàng và cất vào chồng bài lưu trữ; khi những bài bình luận, tường thuật phải viết lệch đi một chút, giấu bớt những chiến công một chút để đánh lạc hướng địch.
Ông Hoàng Xuân Tùy kể: “Lúc nào cũng phải tính đến trường hợp báo rơi vào tay giặc, ngoài tôi phụ trách tuyên huấn mặt trận, bộ chỉ huy chiến dịch cũng dành thời gian theo dõi, chỉ đạo việc làm báo rất sát sao. Sáng nào tôi và anh Văn (đại tướng Võ Nguyên Giáp) cũng nghe đài nước ngoài để phân tích tình hình thế giới, vừa phục vụ cho chỉ đạo chiến dịch vừa làm báo”...
Tiếp vận lên Điện Biên qua núi, qua sông, xuyên rừng, vượt thác là điều mà quân Pháp cho rằng quân đội VN không thể làm được. Làm báo ngay tại mặt trận để thúc đẩy tinh thần chiến sĩ là việc mà quân Pháp không thể tưởng tượng ra. Nhưng tất cả đã được biến thành sự thật, và được thực hiện bởi những người rất bình thường như bác Tần, bác Tùy mà tôi gặp hôm nay.
Sau ngày cưới tại mặt trận.
Kể về những huyền thoại, họ chỉ cười và nhắc lại câu khẩu hiệu ngày ấy: “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”.
Cũng tại mặt trận Điện Biên Phủ, sau ngày chiến thắng, đám cưới của đ/c Hoàng Xuân Tùy với cô diễn viên văn công Song Ninh được tổ chức. Ông nhớ lại:

“Khoảng đầu tháng 5-1951, khi đang chuẩn bị lên đường tham gia chiến dịch Hà Nam Ninh thì tôi nhận được lệnh trở về Tổng cục Chính trị đưa đoàn điện ảnh Trung Quốc đi quay phim về Việt Nam. Trong một lần quay cảnh đoàn văn công Tổng cục Chính trị phục vụ bộ đội, tôi đã gặp bà ấy. Đó là một cô gái duyên dáng, hát rất hay và diễn kịch cũng giỏi - tên là Lê Thị Song Ninh, người dân tộc Tày. Biết cô ấy giỏi tiếng Hoa, chúng tôi đã mời cô về làm phiên dịch cho đoàn.


Trưởng BLL Chiến sĩ Điện Biên Hoàng Xuân Tùy
gặp lại Võ Đại tướng tại TpHCM.
Sau 6 tháng, chúng tôi trở nên thân thiết với nhau, đôi mắt biết nói của cô ấy, thái độ ân cần ấm áp mà cô ấy dành cho tôi thật sâu đậm. Tôi mạnh dạn viết thư ngỏ lời. Bức thư viết vội đầu tiên ấy còn vụng về lạ nhưng sau đó vài ngày, tôi bất ngờ nhận được lá thư… đồng ý từ cô ấy.

Cuối năm 1953, tôi được điều động lên chiến dịch Điện Biên Phủ để làm nhiệm vụ Trưởng ban Tuyên huấn của chiến dịch, kiêm phụ trách Báo Quân đội Nhân dân tại mặt trận. Còn cô ấy vừa tham dự Đại hội Liên hoan Sinh viên thế giới tổ chức tại Bucharest (Romania) về và theo đoàn đi phục vụ chiến dịch.

Những ngày giáp tết năm 1954, nhiều đồng đội “xúi” tôi cưới vợ gấp gấp vì chiến dịch sắp sửa vào hồi nóng bỏng. Được Chủ nhiệm Chính trị Lê Liêm đồng ý đứng ra làm chủ hôn, ngay tại lán của anh, chúng tôi đã tổ chức lễ cưới. Mấy anh em trong đơn vị đã dựng một căn lán nhỏ làm “buồng uyên ương”, lấy cây rừng ghép làm giường tân hôn. Nhưng chúng tôi chỉ ở bên nhau được vài ngày rồi lại phải chia tay, cho đến trước khi tiếp quản thủ đô (tháng 10-1954) chúng tôi mới gặp lại nhau.

Hàng chục năm sau, "cặp vợ chồng Điện Biên" năm xưa đã được gặp Võ Đại tướng tại TpHCM. Chẳng quản tuổi già, bà Song Ninh đã hát "Tình ca Tây Bắc" tặng Đại tướng.
Những câu chuyện thật cảm động!

1 nhận xét:

Trong ảnh Trưởng BLL chiến sĩ Điện Biên đến thăm Võ Đại tướng có 2 chú Hoàng Minh Phương và Minh Long.
Đám cưới cô chú Tùy, Ninh được Chủ nhiệm Chính trị Lệ Liêm làm chủ hôn. Hay quá! Toàn người thân.



"Câu chuyện đám cưới VN thế kỷ 20" còn dang dở...



Sau một năm vận động , Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam (DTHVN) đã thu được khoảng 400 hiện vật của những đám cưới VN thế kỷ 20, chủ yếu là ảnh. Chưa đủ bề dày để có thể khắc hoạ một cách toàn diện lịch sử đám cưới hơn 100 năm qua nên việc trưng bày sẽ phải lùi đến tầm này năm sau.
Cau chuyen dam cuoi VN the ky 20 con dang do
Căng dây trước ngõ nhà cô dâu để đòi "lệ phí" của nhà trai!- Một đám cưới kiểu cổ ở nông thôn.

Ngoài ảnh chiếm đa phần, các hiện vật đáng chú ý khác là 9 giấy đăng ký kết hôn của những năm 30, 50, 70; 3 thiếp mời của những năm 70-80. Cuộc vận động mới thu hút sự hưởng ứng của 2 thành phố lớn HN và TPHCM, các địa phương còn lại ít tham gia hoặc không có. Bảo tàng cũng nhận được một số ảnh cưới của hai gia đình người Việt định cư tại Mỹ và Canada. Hiện vật minh hoạ cho một số bước (giai đoạn) của đám cưới còn ít (ăn hỏi, hội trường cưới...). Không có nhiều ảnh về đám cưới cổ ở nông thôn.
Đáng tiếc hơn nữa, một chủ đề quan trọng của cuộc vận động là ghi lại những câu chuyện đằng sau những tấm ảnh, bảo tàng mới tiến hành được phần nhỏ. Tuy nhiên, với 400 hiện vật bước đầu, "Câu chuyện đám cưới VN thế kỷ 20" đã có khá nhiều điều thú vị, ít nhất là đã có thể có một cái nhìn sơ lược về sự thay đổi nội dung, hình thức của đám cưới VN qua các thời kỳ đầy biến động của thế kỷ trước.
Cau chuyen dam cuoi VN the ky 20 con dang do
Đám cưới ở chiến khu Việt Bắc: cô dâu cầm hoa "tự chế" và trang phục cưới kiểu "có gì mặc nấy"!
Qua những tấm ảnh có thể thấy, đám cưới của luật sư Đỗ Xuân Sáng có hôn trường rất lịch sự, khách ngồi dự đông đúc và thấp thoáng có ô tô đón dâu. Chú rể mặc comple, cô dâu rất đẹp mặc áo dài kiểu cổ. Họ cưới vào khoảng năm 1930. Sang lắm, rõ là đám cưới của một trí thức thời Pháp giàu có!
Cau chuyen dam cuoi VN the ky 20 con dang do
Một đám cưới thời kháng chiến chống Mỹ
Năm 1954, ông Hoàng Xuân Tuỳ (sau là thứ trưởng Bộ Giáo dục) kết hôn với bà Song Ninh ngay tại Điện Biên Phủ sau chiến thắng. Trong ảnh, họ mặc quần áo bộ đội, đứng ở Sở chỉ huy chiến dịch tiền phương.
Cũng tổ chức hôn lễ ở Điện Biên Phủ, có cặp vợ chồng gửi ảnh chụp ngay trên nóc hầm Đờ-cát, có người đứng trên xe tăng! Nam mặc áo lính, nữ mặc áo bà ba. Thời chiến chinh, giản dị đến đáng khâm phục! Nhìn vào ảnh, nếu không được giới thiệu đó là "cô dâu chú rể đang chụp ảnh cưới" thì ai mà tin được!
Đám cưới những năm chống Mỹ. Hôn trường đặc trưng của thời kỳ này là phông treo ảnh Bác Hồ với dòng khẩu hiệu: "Vui duyên mới không quên nhiệm vụ". Phông cưới thường làm bằng dù pháo sáng màu trắng hoặc dù nguỵ trang của bộ đội loang lổ màu lá. Trên bàn bày một lọ hoa màu vàng đồng, tận dụng từ ống cát-tút đạn pháo...
Thử phác lại lịch sử đám cưới 100 năm qua bằng ảnh
Diễn ra vào tháng 11/2005, cuộc trưng bày dự kiến sắp xếp lần lượt theo các giai đoạn trong đám cưới. Theo đó, thời gian sẽ là trục dọc xuyên suốt từng chủ đề, chứ không phải đặc trưng vùng miền. Các chủ đề gồm: Sự thừa nhận của cộng đồng (tức giấy giá thú), lễ dạm hỏi, mời cưới, hình thức đưa đón dâu, hoa cưới, hội trường, trang phục, đồ mừng cưới và liên hoan gặp mặt hai họ.
Cau chuyen dam cuoi VN the ky 20 con dang do
Giấy hôn thú năm 1989 tại HN
Xem 9 giấy hôn thú mà bảo tàng DTHVN đã nhận được, ta thấy, trước năm 1940, giấy này được gọi là Chứng thư hôn thú hay Giấy khai giá thú. Giấy hôn thú là cách gọi vào những năm 50. Thực ra, còn nhiều cách ghi khác. Ngày nay, ta dùng một từ cố định dễ hiểu là Giấy đăng ký kết hôn. Cùng còn tuỳ từng địa phương, nhưng dường như hình thức của giấy hôn thú ngày càng đơn giản. Giấy hôn thú năm 1932 gồm 3 thứ chữ Hán, Pháp và Quốc ngữ. Giấy khai giá thú của cụ Nguyễn Khắc Đình, viết năm 1939, khi ấy cụ "22 tuổi, ở làng Bình Hồ, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên", lấy cô "Nguyễn Thị Thuận, 18 tuổi, ở phố Niềm Xá, huyện Võ Giàng, Bắc Ninh" có ghi rõ: Lấy làm vợ cả! được viết bằng chữ Hán và chữ Việt. Đến năm 1989, giấy công nhận kết hôn tại Hà Nội ngắn gọn và giản dị hơn nhiều (ảnh)!
Cau chuyen dam cuoi VN the ky 20 con dang do
Giấy hôn thú năm 1939 của cụ Nguyễn Khắc Đình
Trước năm 1945, truyền thống mời cưới chỉ có miếng trầu. Đến thời bao cấp, cùng với trầu nhất định phải có thuốc lá, mặc dù thuốc lá hồi ấy rất khó kiếm. Nay thì nào trầu, nào cau, nào bánh cốm, bánh đậu xanh, chè, lại cả thiếp cưới mạ vàng! Những năm 80 thiếu thốn, người ta hay có mốt nhờ một anh bạn hoạ sỹ nào đó vẽ thiếp mời giúp, vừa tiện lại vừa có vẻ lãng mạn. Nếu có thiếp thì thường là thứ thiếp hình chữ nhật, màu loè loẹt nên chữ có vẻ lôm nhôm, bên ngoài có đôi bồ câu, chữ song hỉ hay hình quả tim. Nếu mời dự lễ thành hôn kèm với mời ăn, thì dán thêm vào thiếp một mảnh giấy mời dự tiệc, nhỏ bằng độ cái nhãn vở.
Đồ mừng cưới cũng là một chủ đề thú vị. Thời xưa hàng xóm biếu gia chủ có khi đôi gà, có khi gạo, hoặc rượu... Thời bao cấp là các vật dụng thiết thực, đơn giản cho cuộc sống của đôi vợ chồng mới: Sang thì mừng một cái phích hay một chiếc chậu sắt Hải Phòng, nếu không thì cũng khăn mùi xoa, áo sơ mi, ấm chén, thậm chí cả vải tã cho trẻ sơ sinh... Bây giờ, ở nông thôn, khách mời "dúi" phong bì vào tay cô dâu/chú rể; ở thành thị, gia chủ ý tứ đặt ở chỗ dễ nhìn thấy nhất một quả tim khổng lồ đã mở sẵn "van".
Còn 1 năm nữa để tìm kiếm và vận động đóng góp hiện vật, hy vọng bức tranh lịch sử đám cưới VN thế kỷ 20 mà bảo tàng DTH VN đưa ra sẽ phong phú và toàn diện hơn.
  • Doãn Diễm
(Bài sử dụng ảnh tư liệu của Bảo tàng DTHVN)
Việt Báo (Theo_VietNamNet)



Báo cáo các bác và cả nhà: trong lúc chờ đợi món quà "bom tấn" từ bác ZZ, em xin mời các bác tham khảo thêm chi tiết về 2 bức hình của NSUT Kim Oanh


1, ảnh chụp với Bác:

1- PTV Tuyết Mai
2- Nghệ sĩ Ngọc Dậu
3- NS Kim Oanh
4- NS Khánh Vân
5- NS Anh Tuấn (vợ bácTrần Thụ)
6- NS Song Ninh (ca sĩ đứng trong dàn HX, vợ bác Hoàng Xuân Tùy)
7- NS Nguyễn Thị Hồng (ngâm thơ)



2, ảnh chụp với Bác, TBT Lê Duẩn, Đại tướng Võ Nguyên Giáp...

1- NS Trang Nhung (hát cải lương trên VOV)
2- NS Minh Tâm (hát chèo, người đầu tiên được giao bài Cô gái Thái Bình)
3- NS Trần Thị Tuyết (ngâm thơ)
4- NS Thu Năm
5- NS Kim Oanh
6- PTV Tuyết Mai
7- PTV Thu Hương (Trịnh Thị Ngọ)
8- NS Châu Loan (ngâm thơ)
9- Bác Lê Duẩn
10- Đại tướng V.N.Giáp
11- NS Trần Thụ
12- NS Kim Đức (hát chèo)
13- NS Ngọc Phan (thổi sáo)
14- NS Tuyết Nhung
15- NS Doãn Thịnh
16- Bác Phạm Văn Đồng
17- NS Kiều Linh (đàn Accordeon)
18- NS Hoàng Vân
19- Vợ bác Trần Lâm
20- PTV Tiếng Anh Lan Hương
21- Bác Trần Lâm

Các NS còn lại thuộc đoàn, cô KO không nhớ tên.

Đây là tư liệu do CS Meu cung cấp, xin cảm ơn Meu!

2 nhận xét:

Avia nói...

Rất trân trọng cảm ơn tác giả đã chia sẻ những tư liệu quý giá. Tuy nhiên trong các chú thích ảnh có vài nhầm lẫn đáng tiếc, tôi xin góp ý để tác giả kiểm tra lại, kẻo in thành sách phổ biến ra càng phiền.

Nhầm lẫn đáng tiếc nhất là ở bức ảnh đại gia đình Cụ Hoàng Phùng đã ghi tên chị gái ông Toại vào vị trí vợ ông Toại, và sai cả vị trí ông Toại.

Cụ thể như sau: "...cô Bùi Xuân Dục tức Hoàng Thị Hành (vợ Ông Cả Toại, ở Mỹ), Hà Thúc Thảo (chồng cô Tường Vy), Cậu cả Hoàng Toại (ở Mỹ)..." Đã "cô Bùi Xuân Dục" , đúng hơn là "bà Bùi Xuân Dục", tức là vợ ông Dục thì không thể là vợ ông Toại!

Vị trí đó là bà Hoàng Toại (mặc áo dài đen), và cạnh bà Toại là ông Toại (mặc com-lê đen) rồi tiếp theo mới là ông Thảo (mặc com-lê trắng).

Vậy đoạn chú thích trên cần chỉnh lại là: "... bà Hoàng Toại, ông Hoàng Toại (trưởng nam), ông Hà Thúc Thảo (chồng bà Tường Vy)..."

Những điểm khác cần chỉnh lại:
Hàng đầu... Bùi Thị Tú Trang (con gái bà Hạnh), Hoàng Thị Yên Chi (không phải Yến Chi)
Hàng sau... trưởng nữ Hoàng Thị Hạnh (không phải Mỹ Hạnh)

Những điểm khác, thứ yếu: ông H.X.Tùy ở Sài Gòn (không phải HN), ông H.H.Nghinh là nguyên Đại sứ tại Phillippin (không phải nguyên Đại sứ quán :-D), bà H.T. Bạch Tuyết ở Canada (không phải Mỹ), chị Hà Thị Như Ý ở Sài Gòn (không phải HN).

Ảnh mà hiện tại chú thích "Di ảnh bà Hoàng Toại" thực ra là ảnh bà Hoàng Thị Hạnh (bà quả phụ Bùi Xuân Dục).

Trân trọng.

Avia nói...

Ở ảnh gia đình ông Hoàng Toại có chú thích: "...Hà và chồng Hoàng Phước Thiện", đúng ra là Hoàng Thiện Căn.

Tên gọi trong gia đình của anh H.T.Căn là Thiện, có lẽ vì vậy mà có nhầm lẫn trên. (Hoàng Phước Thiện lại là con ông H.T.Ngộ, hiện ở Huế)